Tất yếu liên minh công nông trí
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Tác giả : Nguyễn Ngọc Thanh - PTK
Triết - CNXHKH
File đính kèm: Không có
Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động xã hội khác trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống
giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây dựng, được Lê - nin
vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH ở
nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH.
TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH.
Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công - nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.
Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai cấp tư sản. Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất bại, theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm, vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp.
Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.
Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ công – nông.
Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng giải phóng mình thành công. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy được vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”
Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức, không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố. “Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như mục tiêu Đảng ta đã đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực hiện có kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của Nhà nước XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn thể nhân dân, nhưng nhân dân lại tập trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức. Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp không được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên minh vững mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức hoạt động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN và nòng cốt của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công - nông - trí thức ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng, họ đã đoàn kết lại trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích, niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách quan, là diều kiện chính tri- xã hội để liên minh công - nông - tri thức ngày càng bền chặt hơn.
Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “ chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội nghị trung ương bảy( Khóa IX), trung ương bảy (Khóa X).
Tóm lại, khi liên minh công - nông - trí - thức được thiết lập, củng cố trên cơ sở các điều kiện khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự lãnh đạo của ĐCS, cho Nhà nước. Để tập hợp lực lượng rộng rãi quần chúng nhân dân trong khối Đại đoàn kết toàn dân cũng phải lấy liên minh công - nông - trí làm nòng cốt. Có liên minh cũng là điều kịên bảo đảm ổn định chính trị cho công cuộc đổi mới, cải cách của CNXH.
TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH.
Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công - nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.
Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai cấp tư sản. Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất bại, theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm, vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp.
Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.
Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ công – nông.
Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng giải phóng mình thành công. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy được vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”
Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức, không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố. “Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như mục tiêu Đảng ta đã đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực hiện có kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của Nhà nước XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn thể nhân dân, nhưng nhân dân lại tập trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức. Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp không được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên minh vững mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức hoạt động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN và nòng cốt của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công - nông - trí thức ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng, họ đã đoàn kết lại trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích, niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách quan, là diều kiện chính tri- xã hội để liên minh công - nông - tri thức ngày càng bền chặt hơn.
Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “ chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội nghị trung ương bảy( Khóa IX), trung ương bảy (Khóa X).
Tóm lại, khi liên minh công - nông - trí - thức được thiết lập, củng cố trên cơ sở các điều kiện khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự lãnh đạo của ĐCS, cho Nhà nước. Để tập hợp lực lượng rộng rãi quần chúng nhân dân trong khối Đại đoàn kết toàn dân cũng phải lấy liên minh công - nông - trí làm nòng cốt. Có liên minh cũng là điều kịên bảo đảm ổn định chính trị cho công cuộc đổi mới, cải cách của CNXH.
cau
21:Trình bày nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
Câu
21:Trình bày nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
1.
Nội dung chính trị của liên minh:
Liên
minh công- nông- trí thức trên lĩnh vực chính trị cần thể hiện ở những điểm
sau đây:
Một
là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của GCCN, giai cấp nông dân, đội
ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt
được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện liên minh lại không
thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai tầng mà phải trên lập trường tư
tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng
của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản
của công nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
Hai
là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có
đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ
vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ
trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh
đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa như 1 nguyên tắc
về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh công-
nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn
nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là
nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức
và xây dựng CNXH.
Ba
là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi
mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần
cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp
thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, nhất
là ở nông thôn.
2.
Nội dung kinh tế của liên minh:
Nội
dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật
vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh
ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:
-
Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp
tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu
kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta xác
định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông nghiệp- dịch vụ”. Trong
điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển kinh tế tri
thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí thức”
-
Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp
tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân,
nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công
nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong cả nước,
giữa nước ta và các nước khác.
-
Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa
dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia
đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá trình hình thành QHSX phải
trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai
trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo
định hướng XHCN.
-
Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước.
Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai
trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính sách khuyến nông, các tổ
chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà nước có những chính sách
hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện cho liên minh
phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu
vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.
Đối
với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có
liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản,
về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ
công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
3.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh:
Liên
minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
-
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
-
Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của
liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp
cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức.
-
Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã
hội trong công nhân, nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết,
đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn
xã hội và thế hệ mai sau.
-
Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc
củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền
núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện
tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.
-
Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát
triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng
ngày càng thuận lợi và hiện đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa,
thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1 cách tương xứng, hợp lý ở các
vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có
như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng XHCN
và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại
gần nhau trên thực tế.
|
Vần đề 5 : Đồng chí hãy phân tích tính tất yếu
và nội dung của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức. Liên hệ thực hiện quá trình liên minh công-nông-trí thức ở Việt Nam
BÀI LÀM
Lý
luận về liên minh công nông với các tầng
lớp lao động khác mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng
lớp trí thức là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Trên cơ sở lý luận đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào hoàn
cảnh nước ta, góp phần quan trọng hoàn thành cuộc cách mạng dân tôc dân chủ
nhân dân, cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN và quá độ lên CNXH. Nhận thức
đúng đắn và thực hiện tốt khối liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH sẽ góp
phần to lớn trong việc ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, từng bước xây dựng
đất nước ta đi lên CNXH.
1. Vị trí, vai
trò của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức.
a. Giai cấp công nhân
:
CNTB ra đời đã đánh dấu một bước tiến
vĩ đại về sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất đặt nền tảng cho nền sản xuất đại
công nghiệp và sản sinh ra những công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiến
bộ. Ở xã hội tư bản, giai cấp công nhân là cơ sở cho sự giàu có của xã hội, họ
bị bóc lột nên hiện thân của họ biểu hiện cho sự bình đẳng của xã hội, họ có
trách nhiệm xóa bỏ giai cấp tư sản để giải phóng mình, giải phóng xã hội .
Được sản sinh và rèn luyện từ nền sản
xuất đại công nghiệp nên giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất có tinh
thần cách mạng triệt để nhất, có tính tổ chức kỷ luật cao, là giai cấp đại biểu
cho lực lượng sản xuất mới cao hơn tiến bộ hơn giai cấp tư sản. Sự tiên tiến
của giai cấp công nhân là biết vạch đường lối, có khả năng vận động và tập hợp
các giai cấp khác cùng bị áp bức bóc lột đấu tranh chống lại giai cấp tư sản,
và qua các cuộc đấu tranh ấy nhận thức được xã hội, hình thành các ý thức giai
cấp. Song, để đấu tranh đi đến thắng lợi hoàn toàn, giai cấp công nhân có chính
Đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng sản, lãnh đạo giai cấp công nhân đấu
tranh giành chính quyền và tiến hành cuộc cách mạng đối với xã hội tư bản, xây
dựng xã hội XHCN, tức là tạo những điều
kiện xây dựng xã hội cộng sản, một xã hội không có giai cấp. Đó là yêu cầu
khách quan sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Ở xã
hội Việt Nam, khái niệm giai cấp công nhân, được các nhà nghiên cứu về giai cấp
công nhân chấp thuận đưa ra là: “giai cấp công nhân Việt Nam là cộng đồng xã
hội những người làm công ăn lương nguồn thu nhập chủ yếu bằng tiền công; trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp; nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật then chốt của xã hội
và tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến cho xã hội”. Như vậy, giai cấp
công nhân Việt Nam bao gồm những người
lao động chân tay và trí óc làm việc trong dây chuyền công nghệ, trong các cơ
sở sản xuất công nghiệp, vận tải, xây dựng, nông lâm, trường; những người làm việc trong các cơ sở dịch vụ kỹ
thuật công nghiệp, kể cả các tổ chức khoa học ứng dụng công nghệ, không phân
biệt thành phần kinh tế.
Nhìn
chung, khái niệm về giai cấp công nhân đều thống nhất ở chổ là người nắm giữ
một số ngành sản xuất vật chất cơ bản xã hội, cung cấp cho xã hội sản phẩm công
nghiệp tiêu dùng, ngành công nghiệp còn có khả năng trang bị cho các ngành sản
xuất và tiêu dùng các phương tiện hoạt động, tạo điều kiện cho các ngành chức
năng thực hiện tốt chức năng của mình. Khái niệm trên cho thấy, khi xã hội ngày
càng phát triển thì đội ngũ giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành lớn mạnh,
trình độ ngày càng nâng cao, giai cấp công nhân càng có vị trí quan trọng trong
việc cải tạo thế giới cũ, xây dựng thế giới mới.
Giai cấp công nhân là giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất xã hội hóa
ngày càng cao; lợi ích của nó thống nhất với lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân
dân lao động và các dân tộc; đấu tranh xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, đấu
tranh không chỉ giải phóng mình mà còn giải phóng cho tất cả nhân loại cần lao.
Song, điều quan trọng là giai cấp công nhân có hệ tư tưởng tiến bộ là lý luận
cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, là lãnh tụ chính trị, là Đảng tiên
phong lãnh đạo phong trào cách mạng. Vì vậy, trong tất cả các giai cấp đối lập
với giai cấp tư sản chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng
tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động trong cuốc đấu
tranh xoá bỏ CNTB xây dựng CNXH.
b. Giai cấp nông dân :
Khác
với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân là những người lao động sản xuất nhỏ trong nông nghiệp (bao gồm cả
lâm nghiệp, ngư nghiệp), một mặt họ là những
người lao động, mặt khác họ là những
người tư hữu nhỏ và do tính chất tư hữu nhỏ nên họ dễ bị giai cấp tư sản
lôi kéo. Đồng thời, khi chưa có sự tác động của nền công nghiệp hiện đại và
nông nghiệp nông thôn thì phương thức sản xuất của nông dân có tính chất phân
tán, lạc hậu, năng suất lao động thấp.Tư tưởng của giai cấp nông dân thường lệ
thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội đương thời, họ không có hệ
tư tưởng độc lập. trong cách mạng XHCN. Khi chưa giác ngộ thì lập trường tư
tưởng của nông dân không kiên định, dễ dao động. Nhưng qua quá trình tham gia
đấu tranh cách mạng họ từng bước hình thành ý thức giác ngộ xã hội, giác ngộ
giai cấp. Đồng thời, giai cấp nông dân là một giai cấp có cơ cấu không thuần nhất,
gồm nhiều thành phần có địa vị và lợi ích khác nhau, trong cách mạng XHCN họ sẽ
từng bước khắc phục được những sự khác
nhau đó. Vì vậy, nếu không quan tâm đến lực lượng nông dân thì trước các bước
ngoặt của lịch sử, họ dễ bị lôi kéo bởi các tầng lớp khác chống phá lại cách
mạng.
Ở nhiều nước, nông dân vẫn chiếm số
đông, họ là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, nông dân thường gắn bó cội
nguồn dân tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc, có truyền thống yêu nước và là lực
lượng có khoa họcả năng cách mạng to lớn. Do đặc điểm riêng có giai cấp nông
dân không thể tự giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội, họ phải liên minh
với giai cấp công nhân mới có thể đánh đổ giai cấp tư sản, giải phóng triệt để
cho giai cấp mình.
Ở Việt Nam, từ khi có Đảng Cộng sản lãnh
đạo, nông dân là lực lượng cách mạng đông đảo nhất, có tinh thần cách mạng quật
khởi. Đấu tranh bất khuất và có nhiều đóng góp lớn lao trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc vì độ lập tự do của tổ quốc, vì CNXH.
c. Tầng lớp trí thức :
Trí thức là tầng lớp xã hội đặc biệt
của bộ phận lao động trí óc, là người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu rộng
lãnh vực trí tuệ của mình. Trí thức xuất
thân trong tất cả các giai cấp các tầng lớp xã hội, họ hoạt động trong tất cả
các ngành sản xuất , các lãnh vực đời sống. Lợi ích của trí thức gắn bó với lợi
ích giai cấp mà họ phục vụ, vì vậy xét trên toàn thể tầng lớp trí thức không có sự đối lập trực
tiếp đối với lợi ích của giai cấp tư sản trong xã hội TBCN. Do đó tầng lớp trí
thức cũng không có hệ tư tưởng độc lập. Phương thức lao động của trí thức là
lao động trí tuệ cá nhân. Sản phẩm của họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị tinh thần. Có tác động trực tiếp đến năng
suất, chất lượng và hiệu quả của mọi quy trình sản xuất vật chất. Nhưng do
phương thức lao động đặc trưng nhất của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân,
nên trí thức không thể là đại biểu cho một phương thức sản xuất tiên tiến mà
trong đó lực lượng sản xuất mang tính “XH hoá” cao, họ không thể là lưc lượng lãnh đạo xã hội
trong cuộc đấu tranh xoá bỏ xã hội tư bản để xây dựng CNXH và CNCS.
Ở Việt Nam, quá trình hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước, trí thức vẫn luôn là đại diện cho trí tuệ của dân tộc.
Lịch sử nước ta ghi nhận những tấm gương
lớn của nhiều nhà trí thức như : Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thuợng Hiền…
Ngày nay, trong thời đại mới, một đội
ngũ tri thức mới của nước ta đã trưởng thành cuùng phong trào cách mạng. Họ là
những người đã trãi qua thử thách, tôi
luyện trong đấu tranh lâu dài dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hộiCN.
2.
Vai trò của liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức là
yêu cầu khách quan của cách mạng XHCN
a. Liên minh công nông
Trong lý luận và thực tiễn cách mạng về
liên minh giai cấp, chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng giai cấp công nhân nếu
tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn độc chống giai cấp tư sản thì sẽ
thất bại. Ngược lại nếu giai cấp công nhân lôi kkhoa học liên minh được với đại
đa sống quần chúng lao động chủ yếu là giai cấp nông dân giữ vững vai trò cách
mạng thì cách mạng sẽ hoàn toàn thắng lợi, thực tiễn cách mạng Pháp (1848-1850)
và công xã Paris (1871) đã chứng minh điều này với sự thất bại của giai cấp
công nhân. Đến cách mạng tháng 10-1917, do xây dựng được khối liên minh công
nông nên cách mạng đã giành được thắng lợi
Xây dựng và củng cố liên minh công nông
thực chất là xác lập và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính khối
liên minh công nông là lực lượng hùng hậu của cách mạng, đồng thời liên minh
với các tầng lớp lao động khoa họcác là nhằm tăng cường sức mạnh và trí tuệ đảm
bảo cho giai cấp vô sản giành và giữ được chính quyền.
Ở nước ta, qua thực tiễn cách mạng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận đúng đắn
rằng chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới
có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và
cũng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách
mạng dân tộc dân chủ và tiến lên CNXH”
Ngày nay, liên minh công nông không còn
là lý thuyết, mà nó trở thành thực tiễn sinh động. Nó được thử thách và tôi
luyện ngày càng vững chảy trong bảo táp cách mạng. Cũng như theo định hướng xây
dựng XHCN, và là một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
b. Liên minh công nhân trí thức :
Cùng với liên minh công nông, liên minh
với tầng lớp trí thức cũng là một yêu cầu khoa họcách quan đối với sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân. nếu giai cấp công nhân và Đảng của nó lôi
kéo, lãnh đạo được trí thức, phát huy tài năng trí tuệ của họ vào mọi công việc
của cách mạng thì cách mạng mới có thể phát triển nhanh chóng, đỡ phải tổn thất
do thiếu tri thức khoa học. Văn kiện Đại hội Đảng lần 7 của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định : Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình
và bản thân công - nông không được nâng cao trí thức thì không thể xây dựng
được CNXH. Đảng cũng đã xác định :”khoa học và công nghệ, giáo duc và đào tạo
phải được xem là quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp và xây dựng CNXH ở nước
ta. Song chúng ta cũng nhìn nhận rằng, đối với trí thức mặc dù có lúc, có nơi
phạm sai lầm “tả khuynh”, nhưng xét cả quá trình vận động cách mạng, giai cấp
công nhân thông qua chính Đảng của mình, có quan điểm và thái độ đúng, đã khơi
dậy và phát huy được lòng yêu nước, đã đoàn kết được tầng lớp trí thức trong
mặt trận dân tộc thống nhất. Hơn thế nữa, ngay từ đầu cũng như về sau này,
không ít nhà trí thức dân tộc đã trở
thành người lãnh đạo của Đảng và nhà nước.
c. Nội dung liên minh công nhân , nông
dân, trí thức ở nước ta :
*
Đối với nông dân :
- Về Chính trị
+ Xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa
2 giai cấp trở thành lực lượng cách mạng chủ yếu nhất để bảo vệ thành quả cách
mạng đã đạt được, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng và bảo vệ nhà nước
XHCN. Để thực hiện nội dung này, yêu cầu khoa họcách quan và bức thiết là phải
không ngừng nâng cao vai trò, năng lực, uy tính lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý của nhà nước.
+ Đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức, tổ
chức và phương thức hoạt động hệ thống chính trị ở nông thôn vì hiện nay các
cấp bộ Đảng, nhà nước, các tổ chức xã hội ở nông thôn, bên cạnh những thành tựu, còn có nhiều mặt yếu kém : những biểu hiện tiêu cực, vi phạm quyền là chủ
trong Đảng và nhà nước, quyền dân chủ của nông dân. Để đạt được sự ổn định và phát triển về kinh tế
chính trị xã hội trong cả nước, phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá, thanh lọc, đổi mới đội
ngũ cấp ủy Đảng, Đảng viên ở nông thôn đi đôi với quá trình giáo dục, bồi dưỡng
đào tạo những cán bộ, Đảng viên có uy
tín nhất định để đáp ứng yêu cầu mới, là nhiệm vụ rất cần thiết hiện nay.
+ Đối với các tổ chức đoàn thể, xã hội ở nông thôn cần
phải gọn nhẹ, có nội dung và hình thức sinh hoạt phù hợp. Đặc biệt là hội nông
dân các cấp cần tổ chức rộng rãi và vững mạnh, giáo dục nông dân đoàn kết giúp
đở nhau trong sản xuất và đời sống, chống tiêu cực ở nông thôn
- Về kinh tế : đây là nội dung cơ bản và quyết định
nhất, làm cơ sở kinh tế vững chắc cho liên minh trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta, đó là :
+ Cốt lỏi của liên minh công nông là
xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp
+ Trong nội dung liên minh kinh tế,
phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và nông dân. Trong mối quan
hệ đó, Nhà nước vừa là một chủ thể lợi ích đại diện xã hội có quan hệ dân chủ,
bình đẳng cùng có lợi với nông dân, vừa là người có vai trò, trách nhiệm và khả
năng định hướng, điều tiết hợp lý các hoạt động, các quan hệ lợi ích thông qua
pháp luật, chính sách và cơ sở quốc doanh.
+ Trong quan hệ với nhà nước-nông dân
đặc biệt chú ý đến chính sách ruộng đất. Nhà nước cần trao quyền sử dụng đất
lâu dài và ổn định cho nông dân để tạo cho các hộ gia đình nông dân thực sự là
những đơn vị kinh tế tự chủ. Mặt khác,
nông dân cũng rất chú ý đến pháp luật và chính sách đầu tư và nông nghiệp
(thuế, giá cả nông sản, XNK…) nhằm bảo vệ quyền lợi, khuyến khích nông dân yên
tâm sản xuất.
+ Để thực hiện liên minh kinh tế, cần
từng bước xây dựng quan hệ sản xuất XHCN ở nông thông với hình thức và bước đi
thích hợp. trong nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế nông dân
nước ta hiện có như : kinh tế HTX, kinh tế các thể, tổ đội công, nhóm hộ gia
đình. thực hiện từng bước có hiệu quả các hình thức kinh tế ấy phải là một quá
trình có lãnh đạo, định hướng, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, dân chủ cùng có
lợi để nông dân từng bước đi lên CNXH.
- Về xã hội :
+ Nước
ta vừa trãi qua chiến tranh lâu dài, ác liệt. Trong đó nông dân đã có
những đóng góp to lớn. vì vậy, Đảng và
nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân. Đặc biệt là
các gia đình thuộc diện chính sách.
+ Giải quyết việc là cho lao động nông
thôn, thực hiện xoá đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ phát triển dân số ở nông thôn.
Đây là hình thức giải quyết vấn đề đô thị hoá ở nông thôn.
+ Chống nạn mù chữ, nâng cao dân trí và
đời sống văn hóa tinh thần cho nông dân, đấu tranh loại trừ các tệ nạn quan
liêu, tham nhũng, mất dân chủ và các hủ
tục ở nông thôn. Đây là hình thức giải quyết các tệ nạn xã hội phát sinh
từ tình trạng do trình độ dân trí thấp ờ nông thôn, đặc biệt và đồng bào thiểu
số, đồng bào đồng bằng sông Cửu Long
+ Đảng và nhà nước cần xây dựng và quản
lý chặt chẽ, hợp lý quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển nông
thôn, tạo điều kiện cho nông nghiệp và công nghiệp, thành thị và nông thôn hỗ
trợ và gắn bó chặt chẽ với nhau.
*
Đối với tầng lớp trí thức
Đảng chủ trương : sử dụng có hiệu quả
và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển đồng bộ
khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa
nâng cao dân trí. Những nhiệm vụ nỗi bật
của trí thức nước ta hiện nay là :
+ Để thực hiện tốt việc liên minh với
tầng lớp trí thức Đảng và nhà nước ta
phải có nhiều chiến lược phát triển khoa học và công nghệ một cách đúng đắn.
+ Phải có chính sách vừa tạo điều kiện,
động viên khuyến khích đội ngũ cán bộ tri thức phát huy tài năng, vừa đổi mới
cơ chế kinh tế lãnh đạo để hướng tri thức vào mục tiêu chung của cách mạng. Nhà
nước kiện toàn và hoàn thiện hệ thống tổ chức khoa học kỹ thuật để hoạt động
đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành khoa học và trong mọi lãnh vực đãt
hiệu quả cao cho xã hội.
+ Cần đề ra chính sách sử dụng, bồi
dưỡng và đãi ngộ thỏa đáng đối với trí thức vì trí thức là lực lượng chủ yếu và
trực tiếp góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài xây dựng nền khoa học
tiên tiến của đất nước.
+ Đào tạo đội ngũ trí thức mới đũ đáp
ứng những yêu cầu cần thiết của sự phát
triển khoa học và công nghệ hiện đại trong những năm tới. Đồng thời có chính sách sử dụng hợp
lý lực lượng trí thức cũ sẵn có đễ cùng phát triển đất nước.
Tóm lại, Liên minh giai cấp công nhân, nông dân
và tầng lớp trí thức là nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc, là chổ dựa chủ
yếu của Đảng và Nhà nước. Đó không phải là ý muốn chủ quan mà là một tất yếu
khách quan do điều kiện lịch sử kinh tế xã hội quy định và cho phépl àm điều đó
cũng như do yêu cầu cách mạng đòi hỏi phải làm như vậy. Muốn cho khối liên minh
đó ngày càng phát huy được tác dụng mạnh mẽ, thì Đảng và Nhà nước phải kịp thời
ban hành và thực thi các chính sách nhằm tăng cường sự thống nhất về lợi ích
giữa các giai cấp, đồng thời phải coi trọng lãnh đạo xây dựng các tổ chức của
nó, làm cho các tổ chức đó thực sự là chổ dựa tin cậy của hội viên, đoàn viên, là chổ dựa vững chắc
của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét