Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

SỰ RA ĐỜI CỦA PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TBCN



I. SỰ RA ĐỜI CỦA PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TBCN


1) Các phương thức sản xuất tiền TBCN ra đời như thế nào?
Trước chủ nghĩa tư bản có 3 phương thức sản xuất sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Các phương thức này đều vận động trong sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định mâu thuẩn với quan hệ sản xuất đang tồn tại, đòi hỏi phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho phương thức sản xuất ra đời mới.
-Phương thức sản xuất đấu tiên của xã hội loài người là phương thức sản xuất công xã nguyên thủy. Trong phương thức này, lực lượng sản xuất và năng xuất lao động rất thấp.. Tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt đều thuộc sở hữu công xã, Sau đó phân công lao động phát triển, năng xuất lao động tăng lên, bắt đầu xuất hiện sản phẩm thặng dư và trao đổi. Chế độ tư hữu xuất hiện. xã hội phân chia giai cấp, phương thức chiếm hữu nộ lệ ra đời.
   -Phương thức chiếm hữu nô lệ dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về TLSX và lao động cưỡng bức, có sự đối kháng giai cấp. Đấu tranh của người nô lệ chống lại chủ nô tăng lên. Nhiều chủ nô phải trả tự do cho người nô lệ, đem ruộng đất chia nhỏ giao cho nông dân tự do canh tác. Phương thức sản xuất phong kiền ra đời.
   Trong phương thức sản xuất phong kiến nông nghiệp là ngành kinh tế chính trị. Ruộng đất thuộc quyền sở hữu của địa chủ giao cho nông dân canh tác. Phương thức sản xuất phong kiến ra đời. Nông dân phải nộp địa tô hiện vật, sau này là địa tô tiền cho địa chủ. Phân công lao động tiếp tục phát triển. Thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xuất hiện. Nhiều trung tâm kinh tế thành thị dần dần mọc lên. Cách mạng công nghiệp diễn ra, lực luợng sản xuất tiếp tục phát triển, sản xuất hàng hóa phát triển. Quan hệ sản xuất phong kiến không còn phù hợp, phải nhường chổ cho quan hệ sản xuất mới. Phương thức sản xuất tBCN ra đời.

2) Quá trình hình thành phương thức sản xuất TBCN diễn ra như thế nào?
    Phương thức sản xuất TBCN được hình thành qua hai quá trình:
- Chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp sng nền kinh tế hàng hóa giàn đơn.
- Chuyển từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang nền kinh tế TBCN
a) Chuyển từ nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa giản đơn.
   Trong nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là TLSX  chủ yếu, kỷ thuật canh tác lạc hậu, phân công lao động kém phát triển. Trong chế độ phong kiến, bên cạnh sở hữu phong kiến còn có sở hữu cá thể nhỏ, nên hình thành kinh tế sản xuất nhỏtiển nông. Sản xuất nhỏ gồm 2 loại; sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp và sản xuất nhỏ dưới hình thức sản xuất hàng hóa đơn giản.
Sản xuất nhỏ tự cung tự cấp là sản xuất tự sản tự tiêu, nên sản xuất kém phát triển.
Phân công lao động ngày một phát triển, kỹ thuật sản xuất tiến bộ, sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn, xuất hiện sự trao đổi mua bán, sản xuất hàng hóa ra đời.
Sản xuất hàng hóa được hình thành là do hai điều kiện sau đây:
Một là, có sự phân công lao độngxã hội. Sự phân công lao động xã hội là sự phân công lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất, tạo nên sự chuyên môn hóa lao động. Do có sự phân công lao động, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hay vài thứ sản phẩm, nên người sản xuất này chỉ dựa vào người sản xuất khác, phải trao đổi phải mua bán sản phẩm của nhau. Tuy nhiên, trong công xã Ấn Độ thời cổ, lao động đã có sự phân công, nhưng các sản phẩm lao động không trở thành hàng hóa. Hay là trong mỗi công xưởng ngày nay, có sự phân công lao động, nhưng không có trao đổi mua bán của nhau, nên sản phẩm cũng không phải là hàng hóa. Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa. Vậy sản xuất hàng hóa ra đời không phải chỉ có điều kiện phân công lao động mà còn điều kiện thứ hai nữa.
Hai là, có sự tách biệt tương đối về kinh tế của những người sản xuất hàng hóa: sự tách biệt này do lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau của những người sản xuất hàng hóa. Đó là sự tách biệt do chê độ sở hữu qui định. Ngoài ra, sự tách biệt cò do chế độ sử dụng, sự khác nhau giữa các loại lao động có ích với tư cách là công việc riêng của những chủ thể sản xuất độc lập, của những ngành nghề lao động khác nhau. Trong những điều kiện đó khi muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau họ phải thông qua mua bán sản phẩm, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa, làm cho sản phẩm hàng hóa ra đời.

b) Từ kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển lên kinh tế TBCN.
- Trong kinh tế hàng hóa giản đơn, người sản xuất trực tiếp là người sở hữu tư liệu sản xuất, hoặc thuê tư liệu sản xuất để sản xuất, làm cho sản xuất phát triển. Dưới sự tác động của quy luật giá trị, sự biến động của giá cả, của cạnh tranh đã làm phân hóa những người sản xuất thành người giàu, trở thành ông chủ, và người nghèo trở thành người làm thuê. Thêm vào đó, quá trình tích lũy ban đầu của tư bản bằng bạo lực đã tạo thêm điều kiện để người giàu có đủ tiền để xây dựng nhà máy, mua nguyên vật liệu và thuê nhân công sản xuất nhằm thu về lợi nhuận, phương thức tư bản chủ nghĩa được hình thành.
Như vậy: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời từ sự chuyển kinh tế hàng hóa giản đơn thành kinh tế hàng hóa TBCN phải có hai điều kiện:
- Có sự tập trung một số tiền lớn vào trong tay một số ít người đủ để lập ra các xí nghiệp.
- Có một lớp người tự do (không phải là người nô lệ) họ không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, người sản xuất trực tiếp là những công nhân làm thuế, không phải là người sở hữu  TLSX còn TLSX thuộc nhà tư bản, sản phẩm lao động do công nhân làm thuê tạo ra thuộc về chủ sở hữu TLSX.

 II. HÀNG HÓA, TIỀN TỆ VÀ QUY LUẬT SẢN XUẤT HÀNG HÓA.

1) Hàng hóa là gì ?  Hàng hóa có những thuộc tính nào ?
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Đó cũng là hai mặt chất và lượng của hàng hóa.
- Giá trị sử dụng (mặt chất của hàng hóa): giá trị sử dụng là công dụng là tính có ích của hàng hóa giúp thỏa mãnh nhu cầu của xã hội. Căn cứ vào giá trị sử dụng, vào công dụng có thể phân biệt được các loại hàng hóa khác nhau. Vì vậy, giá trị sử dụng nói lên mặt chất của hàng hóa.
Giá trị (mặt lượng của hàng hóa): Hàng hóa đem trao đổi sẽ có giá trị trao đổi, giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ, tức là quan hệ về số lượng giữa những hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau. Thí dụ: 1m vải đổi được 5 kg đậu. Vải và đậu là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, trao đổi được với nhau vì chúng thuộc hai chủ sở hữu khác nhau, và họ cần đến sản phẩm của nhau. Chúng trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định, vì chúng có cơ sở chung là:
-          Đều là sản phẩm của lao động.
-          Kết tinh lượng hao phí lao động như nhau.
Cơ sở chung này được gọi là giá trị của hàng hóa.
Như vậy giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất kết tinh
trong hàng hóa. Nó biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội của những người sản xuất hàng hóa và cho thấy thực chất của trao đổi hàng hóa chính là trao đổi hao phí lao động cho nhau. Giá trị hàng hóa là phạm trù lịch sử riêng có của sản phẩm hàng hóa.

          2) Lao động sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt, hai mặt đó là gì ? Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị ?
a) Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa   
Hàng hóa có hai thuộc thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị vì lao động sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt. Hai mặt đó là :
-          Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
-          Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa
Lao động cụ thể là lao động có ích, dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định như: lao động của người thợ xây, thợ mộc, thợ may … kết quả của lao động cụ thể là tạo ra một công dụng nhất định, tức là tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa biểu tượng sự hao phí sức lao động của con người về cơ bắp, tinh thần …. trong quá trình lao động chung của con người không kể hình thức cụ thể nó như thế nào. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt vừa thống nhất vừa mâu thuẫn của lao động sản xuất hàng hóa, chúng phản ánh mâu thuẫn co bản của sản xuất hàng hóa “lao động tư nhân mâu thuẫn với lao động xã hội”.
b) Lượng giá trị của hàng hóa.
            Giá trị của hàng hóa là do lao động trừu tượng của con người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa, Vậy, lượng giá trị hàng hóa do lượng lao động tiêu hao để làm ra hàng hóa quyết định. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính theo thời gian lao động.
            Lượng giá trị hàng hóa cao hay thấp là do những yếu tố sau đây quy định:
            - Do năng suất lao động : năng suất lao động = thời gian lao động đã hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động cao thì hao phí thời gian lao động ít, như vậy giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
            - Do trình độ kỹ thuật của người lao động . Trình độ kỹ thuật của người lao động cao sẽ tránh được phế phẩm, lao động thành thạo, tiết kiệm thời gian lao động, nên lượng giá trị hàng hóa phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao động.
            Giá trị của hàng hóa gồm hai loại : giá trị cá biệt và giá trị xã hội.
            - Giá trị cá biệt hàng hóa là lượng hao phí lao động của từng người, từng đơn vị sản xuất hàng hóa .
            - Giá trị xã hội của  hàng hóa là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ kỹ thuật trung bình.
            Trên thị trường không thể dựa vào giá trị cá biệt để trao đổi mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa để trao đổi. Do đó lượng giá trị của hàng hóa không tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
            Như vậy lượng giá trị của hàng hóa là lượng thời gian lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó.
            c) Mối quan hệ giữa các loại giá trị

·         Quan hệ giá trị trao đổi và giá trị:
- Giá trị của hàng hoá là cơ sở, là nội dung bên trong của giá trị trao đổi.
- Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị.
·         Quan hệ giá trị sử dụng và giá trị:
- Giá trị sử dụng và giá trị là hai mặt thống nhất trong cùng một hàng hóa.
- Giá trị sử dụng và giá trị là thể hiện mặt chất và mặt lượng của hàng hóa.
- Mặt chất của hàng hóa (giá trị sử dụng) làm cho chúng khác nhau về chất, nhưng mặt lượng của hàng hóa (giá trị) lại làm cho chúng đồng nhất với nhau và có thể so sánh được với nhau.
3) Hãy trình bày sự hình thành giá trị xã hội của hàng hóa và làm rõ mối quan hệ giữa giá trị xã hội, giá trị thị trường và giá cả thị trường của hàng hóa ?
a) Sự hình thành của giá trị xã hội của hàng hóa :
- Giá trị xã hội của hàng hóa thể hiện ở hai mặt : mặt chất và mặt lượng. Về chất : giá trị xã hội của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa . Về lượng, giá trị xã hội của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.
- Vì sao giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động cần thiết.Bởi vì:
·         Cùng một loại hàng hóa sẽ có nhiều người sản xuất với điều kiện sản xuất
khác nhau, nên có giá trị cá biệt khác nhau.
·         Đưa ra trao đổi trên thị trường, cùng một loại hàng hóa phải có một cơ sở 
trao đổi giống nhau nên phải dựa vào giá trị xã hội do thời gian lao động xã hội cần thiết quyết định.
            Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần có để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình. Điều kiện sản xuất trung bình còn là điều kiện sản xuất của nhóm người sản xuất tuyệt đại bộ phận hàng hóa nào đó trong xã hội.
- Tham gia vào lao động xã hội có lao động phúc tạp và có lao động giản đơn. Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn.
·  Lao động giản đơn là loại lao động mà bất cứ người nào có khả năng lao động bình thường trong xã hội nhất định đều làm được.
·         Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi sự huấn luyện chuyên môn trước
Cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị lao động giản đơn. Vì vậy trong trao đổi hàng hóa mọi lao động phức tạp đều quy thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.
Vậy, lượng giá trị xã hội của hàng hóa do thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn, trung bình quyết định. Đó là một đại lượng không cố định, nó phụ thuộc vào năng suất lao động.
b) Mối quan hệ giữa gia trị xã hội và giá trị thị trường.
Giá trị thị trường là giá trị xã hội được tính toán trong những điều kiện sản xuất có quan hệ cung cầu và trình độ sản xuấtkhác nhau của những người tham gia sản xuất một loại hàng hóa. Theo đó, các trường hợp tính toán gia trị thị trường như sau:
- Trường hợp 1: có nhiều người sản xuất với số lượng khác nhau, giá trị cá biệt khác nhau do điều kiện sản xuất xấu tốt khác nhau. Trong trường hợp này, giá trị thị trường bằng giá trị xã hội và do gia trị của đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định.
- Trường hợp 2: Đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện sản xuất kém hơn điều kiện sản xuất trung bình. Trong trường hợp này giá trị thị trường quyết định như các tình huống sau đây:
·      Nếu cầu vượt cung : giá trị thị trường do giá trị của đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện kém hơn điều kiện trung bình quyết định.
·      Nếu cầu Xắp xỉ và không vượt cung : giá trị thị trường sẽ xê xích giữa giá trị hàng hóa sản xuất trong điều kiện sản xuất kém và giá trị hàng hóa được sản xuất trong điều kiện trung bình.
            - Trường hợp 3 : Đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện sản xuất khá hơn điều kiện sản xuất trung bình thì giá trị thị trường quyết định như sau:
·      Nếu cung vượt cầu : Giá trị thị trường do giá trị của đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện khá quyết định.
·         Nếu cung xấp xỉ cầu : thì giá trị thị trường sẽ xê dịch giữa giá trị hàng hóa của loại xí nghiệp trung bình.
Trong cả 3 trường hợp trên đây không phải qui mô, cung cầu quyết định lượng giá trị của hàng hóa mà chỉ có tác dụng điều chỉnh lượng giá trị giữa các xí nghiệp cùng ngành. Xét cho cùng, giá trị thị trường chỉ do một nguồn duy nhất tạo ra, đó là sự hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa.
c) Mối quan hệ giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường .
Hàng hóa được mua, bán theo giá cả thị trường.
Giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường do ảnh hưởng của cung cầu, quan hệ cạnh tranh và sức mua của đồng tiền. Nghĩa là, giá cả thị trường chịu ảnh hường của giá trị thị trường và các quan hệ kinh tế khác.
Trên thị trường, để có thể mua, bán hàng hóa, người mua và người bán phải thỏa thuận với nhau về giá bán. Tức là giá cả thị trường do người mua và người bán thống nhất, quyết định. Khi giá cả thị trường được hình thành có nghĩa là mâu thuẫn giữa lao động cá biệt và lao động xã hội, mâu thuẫn về giá cả, về lợi ích kinh tế giữa người mua và người bán đã được giải quyết. Nó đảm bảo cho người sản xuất kinh doanh bù đắp được chi phí sản xuất và tìm kiếm thu nhập cho mình.
Giá cả thị trường là tín hiệu để xã hội điều chỉnh sản xuất  và nhu cầu đối với từng loại hàng hóa.
4) Tiền là gì, nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền ?
a) Nguồn gốc, bản chất của tiền.
Tiền là phương tiện được thừa nhận chung để làm trung gian cho việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
Tiền xuất hiện là do kết quả của quá trình trao đổi hàng hóa, do quá trình phát triển của các hình thái giá trị của hàng hóa từ thấp lên cao:
·         Hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị là hình thái trong đó giá trị của hàng hóa này được biểu hiện của giá trị sử dụng của hàng hóa khác (1 hàng hóa A=5 hàng hóa B).
·      Hình thái toàn bộ hay mở rộng là hình thái trong đó giá trị của nhiều hàng hóa khác nhau được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa khác ( 1 hàng hóa A=2 hàng hóa B =4 hàng hóa C …)







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét