Vấn
đề 1: CHỦ
NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I.
CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Vấn đề cơ
bản của triết học và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm
trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
a. Ph.Ăngghen
khái quát vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm “L.Phoi-ơ-bắc
và sự cáo chung của Triết học cổ điểm Đức” Ph.Ăngghenđã chỉ rõ:
“Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là
vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”[1].
Trong
thế giới có vô vàn hiện tượng nhưng chung qui lại chúng ta chỉ phân làm hai
loại, một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là, những
hiện tượng tinh thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức được goi là “vấn đề cơ bản lớn nhất” hay “vấn đề tối
cao” của triết học. Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở, là điểm xuất phát
để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học.
b.
Nội dung và ý nghĩa của vấn đề cơ bản của triết học
* Nội dung của vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt (hai phương
diện):
Theo Mác - Ăngghen:“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”[2].
Vấn đề này gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất (mặt bản
thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh
ra cái nào, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai (mặt nhận
thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng nhận
thức thế giới chung quanh hay không?
Thực
chất vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Bởi vì:
-
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng rộng lớn nhất của đời sống con người
-
Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.
-
Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sơ để phân định lập
trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết
học.
c.
Sự đối lập giữa hai quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải quyết vấn đề
cơ bản của triết học
* Giải quyết
mặt thứ nhất:
- Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất (tồn tại, tự nhiên) có trước , ý
thức (tư duy, tinh thần) có sau, vật chất quyết định ý thức.
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tư duy,
tinh thần) có trước, vật chất có sau,ý thức quyết định vật chất.
Giải quyết mặt thứ hai:
Vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh hướng đối
lập nhau là thuyết khả tri và thuyết bất khả tri.
Đa số các nhà
triết học khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới khách
quan (khả tri).
Một số ít các nhà triết học
phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng nhận thức của con người (bất khả tri).
2. Các hình thức phát triển của chủ nghĩa duy
vật trong lịch sử
Có 3 hình thức tồn tại và phát triển của CNDV là:
a. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại. Đặc điểm của CNDV này là đồng nhất vật chất với một
hay một số chất cụ thể của nó (đất, nước, lửa, không khí,... ) và coi đó là
điểm xuất phát của thế giới.
b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ
nghĩa duy vật siêu hình, xuất hiện
vào thế kỷ XV, phát triển rầm rộ vào thế kỷ XVII, XVIII và đạt đỉnh cao vào thế
kỷ XIX. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của cơ học, có ảnh hưởng
lớn đến quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng (đầu thế kỷ XIX) do
C.Mác - F.Ăngghen sáng lập, sau đó được V.I.V.I.Lênin và những người mácxít kế
tục, bảo vệ và phát triển.
II.
QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
a. Phạm trù
vật chất
* Quan
niệm trước C.Mác về vật chất
- Chủ nghĩa duy
tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực
tại khách quan. Cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là
“sự phức hợp” những cảm giác của con người.
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại
cụ thể của vật chất.
Ví dụ:
Talet = nước; Anaximen = không khí; Heraclit = lửa; Démocrite = nguyên tử; Triết học Ấn Độ = đất, nước, lửa, gió; Thuyết
Âm dương - Ngũ hành ở Trung Quốc = kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
>
Quan niệm về
vật chất thời kỳ cổ đại mang tính trực quan, cảm tính. Tuy nhiên, nó chỉ có tác
dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tồn giáo
- Chủ nghĩa duy
vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với
nguyên tử và khối lượng. Niu – tơn cho rằng, khối lượng là vật chất.
Quan niệm về vật chất thời kỳ cận đại mang tính cơ
học, máy móc, siêu hình.
* Quan
niệm của triết học C.Mác về vật chất
Cả
C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, vật
chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến
đổi không ngừng, ở đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
*
Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác”[3].
Khi định nghĩa về phạm trù vật chất, V.I.Lênin đã
sử dụng một phương pháp đặc biệt là: Đem đối lập phạm trù vật chất với phạm trù
ý thức.
*
Nội dung của định nghĩa:
- Vật chất là cái khách
quan, tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại
ấy đã được con người nhận thức hay chưa.
- Vật chất là cái gây nên
cảm giác ở con người khi trức tiếp hoặc giáin tiếp tác động lên giác quan con
người.
- Cảm giác, tư duy, ý
thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
* Ý
nghĩa của định nghĩa:
-
Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm
của CNDVBC.
-
Khăc phục triệt để những sai lầm, hạn chế của CNDV trước Mác về phạm trù vật
chất; bác bỏ, phủ nhận CNDT và tôn giáo về vấn đề vật chất.
-
Tạo cơ sở cho các nhà triết học DVBC xây dựng quan điểm vật chất trong đời sống
xã hội.
b. Phương
thức vận động, hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là gì?
- Theo Ph.Ăgghen “vận
động là mọi biến đổi nói chung”.
- Vận động là phương thức
tồn tại của vật chất
Theo Ph.Ăngghen viết: “Vận động là
phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu
và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động”[4].
Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng khác nhau
của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật
thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà
nói cả”[5]
- Vận động là thuộc tính cố
hữu của vật chất
+ Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với
vật chất, không do ai sinh ra và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Vận động được bảo toàn cả về lượng và về chất.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Cần phải hiểu tính bất diệt
của vận động không chỉ đơn thuần về mặt số lượng mà cần phải hiểu cả về mặt
chất lượng nữa”[6].
* Các hình thức vận động của vật chất
Theo Ph.Ăngghen,
có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ
giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật
lý (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản,
vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.
- Vận động hóa
học (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa
hợp và phân giải của các chất.
- Vận động sinh
vật: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng hóa, dị hóa,
sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa.
- Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội
của con người; sự thay thế các hình thái kinh tế -xã hội từ thấp đến cao.
* Vận động và đứng im:
Vận động là
tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
- Đứng im chỉ
xảy trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi quan hệ.
- Đứng im chỉ
xảy trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới).
- Đứng im là
một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu sự vận động.
- Xác định quan điểm duy vật biện chứng; xem xét sự
vật, hiện tượng trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Đứng im chỉ là
tạm thời, tương đối.
- Hiểu vận động là cái vốn có của vật chất, không do
ai tạo ra và không bao giờ bị tiêu diệt. Chống lại các quan điểm duy tâm siêu
hình.
- Nắm vững các hình thức vận động của vật chất để hiểu
tính đa dạng, phong phú của vận động.
- Sự vật có
nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức
vận động nhất định. Không thể quy hình thức vận động cao về hình thức vận động
thấp hoặc ngược lại.
c. Không gian
và thời gian với tư cách là hình thức tồn tại của vật chất
- Quan điểm
siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện
tượng không tồn tại trong không gian và thời gian.
- Quan điểm duy vật biện chứng:
+ Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, gắn
liền với sự vận động của vật chất.
+ Không có không gian và thời gian không có vật chất cũng như không thể
có sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
“Vì các hình thức cơ bản của mọi
tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô
lý như tồn tại ở ngoài không gian”[7].
+ Không gian vô tận. Thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
+ Không gian có 3 chiều. Thời gian có một chiều.
2. Ý thức
a. Nguồn gốc
của ý thức
*
Nguồn gốc tự nhiên:
- Ý thức là là kết quả của
quá tình tiến hoá của thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất. Vậy, phản ánh
là gì?
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất có ở mọi dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
- Phản ánh có các đặc điểm sau:
+ Là thuộc tính vốn có ở mọi
dạng vật chất
+ Kết quả của phản ánh phụ
thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động. Vật tác động là cái
được phản ánh, vật nhận tác động là cái phản ánh.
+ Quá trình phản ánh bao hàm
cả quá trình thông tin, cái phản ánh mang thông tin của cái được phản ánh.
- Các hình thức của phản
ánh:
+ Phản ánh lý hoá:
Là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh. Hình
thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn.
+ Phản ánh sinh học: Đặc trưng cho giới tự nhiên sống. Hình thức phản
ánh này đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó các sự vật thích nghi với môi
trường sống để duy trì sự tồn tại của mình. Hình thức phản ánh này có nhiều cấp
độ:
+1. Tính kích thích: thể hiện ở thực vật và động vật bậc thấp, là phản
ứng trả lời tác động của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến quá trình trao
đổi chất giữa chúng.
+1. Tính cảm ứng: là hình thức phản ánh của động vật chưa có hệ thần
kinh trung ương, là tính nhạy cảm đối với môi trường xung quanh.
+1.Tâm lý: Là hình thức phản ánh ở các động vật bậc cao, có hệ thần
kinh trung ương. Tâm lý động vật là sự phản ánh có tính bản năng do nhu cầu
trực tiếp của sinh lý cơ thể và quy luật sinh học chi phối.
- Ý thức: Là hình thức cao
nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức là hình thức phản ánh chỉ có ở
con người.
> Ý thức là đặc tính riêng của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người.
*
Bộ não người và ý thức:
Bộ não người là một tổ chức
sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp. Bỗ não người là cơ quan vật
chất của ý thức.
Hoạt động ý thức chỉ diễn ra
trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý – thần kinh của bộ não.
Như vậy, bộ óc người cũng với thế giới bên ngoài
tác động lên nó – đó chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội:
Ý thức người ra đời cùng với
quá trình hình thành bộ óc người nhờ có lao động và ngôn ngữ:
Lao động là gì?
Theo C.Mác: Lao đọng là quá tình diễn biến giữa con người và tự nhiên, trong đó
con người đóng vai trò là môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật
chất giữa người và tự nhiên.
Đặc điểm của lao động:
La hoạt động đặc thù của con người, lao động luôn mang tính tập thể.
Vai trò của lao động:
+ Lao động đã sáng tạo ra
bản thân con người, nhờ có lao động mà con người tách khỏi thế giới động vật.
+ Lao động làm cho cơ thể
con người ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là bộ óc và các giác quan.
+ Thế giới khác quan bộc lộ những thuộc tính, những
kết cấu, những quy luật vận đọng của mình trong quá trình lao động.
+ Trong lao động, đồng thời
với lao động là ngôn ngữ (ngôn ngữ xuất hiện từ lao động).
Ngôn ngữ là gì?
Theo C.Mác: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn
ngữ là cái võ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ:
+ Là phương tiện giao tiếp
trong xã hội, để trao đổi tri thức, kinh nghiệm,...
+ Là phương tiện để tổ kết
thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá
hiện thực.
Tóm lại, không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành, tồn tại và phát triển.
Ý thức là nội dung thì ngôn
ngữ là hình thức biểu hiện của nó.
* Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khác quan vào bộ óc
con người một cách năng động và sáng tạo. Điều này được thể hiện ở chỗ:
+ Ý thức cũng là “hiện thực”, nhưng đó là hiện thực
trong tư tưởng. Đó là sự thống nhất giữa vật chất và ý thức. Trong đó, vật chất
là cái được phản ánh, còn ý thức là cái phản ánh.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khác quan,
bởi vì ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu
cầu của thực tiễn.
+ Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Tính sáng
tạo của ý thức rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên đó là sự sáng tạo dựa trên sự
phản ánh.
Quá trình ý thức được thống nhất bởi các mặt sau:
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.
Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
+ Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh
tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức
là quá trình hiện thực hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần
tuý mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong
hoạt động cải tạo thế giới của con người.
* Kết cấu của ý thức
- Theo
chiều ngang, ý thức gồm:
+ Tri thức:
“là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái
hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn
đạt chúng dưới những hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác”[8].
Phân loại tri thức:
+
Có nhiều loại tri thức khác nhau: tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri
thức về con người.
+
Dựa vào trình độ phản ánh, có tri thức thông thường, tri thức khoa học. Tri
thức khoa học lại được chia thành thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý
luận.
+ Tình cảm:
Là sự cảm động của con người trong mối quan hệ với thực tại xung quanh và với
chính mình.
- Theo
chiều dọc, ý thức bao gồm:
+ Tự ý thức:
Là ý thức về bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
+ Tiềm thức:
Là những tri thức mà con người đã có được từ trước nhưng gần như trờ thành bản
năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức.
+ Vô thức: là trạng
thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con
người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền thông tin bên trong,
chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí,..
* Ý nghĩa phương pháp luận:
CNDVBC khẳng định, vật chất có trước, sinh ra ý thức, quyết định ý thức,
song ý thức cũng có tính độc lập tương đối và có tác động ngược lại đối với vật
chất. Sự tác động này diễn ra theo hai hướng:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan nó sẽ có tác dụng thúc
đẩy hoạt động thực tiễn.
+ Nếu ý thức phẩnnhs không đúng hiện thực khách quan thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của thực tiễn.
Vấn đề 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I.
PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng và
các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Phép biện
chứng
*
Sự đối lập giữa hai quan điểm biện chứng và siêu hình trong việc nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới
Biện
chứng và siêu hình là hai phương pháp nghiên cứu thế giới khác nhau:
Quan
điểm siêu hình
|
Quan
điểm biện chứng
|
-
Chỉ nhìn thấy những sự vật riêng lẻ mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại
giữa những sự vật ấy.
-
Chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng
-
Thấy bộ phận mà không thấy toàn thể
-
Chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự
vật
-
Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà không thấy sự vận động và biến đổi liên tục
của nó.
|
-
Không chỉ nhìn thấy sự vật riêng lẻ mà còn nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa
chúng
-
Không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng
-
Vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể.
-
Không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu
vong của sự vật ấy.
-
Không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy trạng thái động của sự vật.
|
- Phép biện chứng là khoa học
nghiên cứu những quy luật chung nhất của mọi sự vận động và phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
b. Các hình
thức cơ bản của phép biện chứng
- Phép biện chứng chất phác
thời cổ đại
Các
nhà triết học thời kỳ này đã đề cập đến phép biện chứng trong nội dung triết
học của mình, song đó mới chỉ là những trực kiến sinh động từ đời sống chứ chưa
phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học thực nghiệm. Vd: Hê-ra-clít nói:“Không thể tắm hai
lần trong cùng một dòng sông”.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
Phép biện chứng duy tâm có
quá trình phát triển lâu dài, đỉnh cao của nó là ở triết học cổ điển Đức. Hê-ghen
được xem là triết gia rường cột của nền triết học này., ông đã xây dựng phép
biện chứng trương đối hoàn chỉnh với hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Tuy nhiên, phép biện chứng mà ông nêu lên là phép biện chứng duy tâm “ngược
đầu xuống đất”, ông cho rằng thế giới hiện thực là biểu hiện của thế giới “ý niệm”.
- Phép biện chứng duy vật
C.Mác
và Ph.Ăngghen trên cơ sở kế thừa hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hê-ghen đã xây dựng thành công phép
biện chứng duy vật, xuất phát từ tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện
chứng là
sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp
- Lý luận là hệ thống những khái niệm,
phản ảnh bản chất, những mối liên hệ tất yếu, những quy luật hoạt động và phát
triển của đối tượng nghiên cứu (thế giới sự vật).
- Phương pháp là các thức, là con đường
hoặc là phương tiện để con người đạt được mục đích mà mình đặt ra.
-
Phương pháp luận là lý luận về phương
pháp.
- Phép biện chứng duy vật, theo Ph.Ăngghen: “chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”[9].
b. Đặc trưng cơ bản và vai trò của
phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, phép
biện chứng duy vật của là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới
quan duy vật khoa học.
- Thứ hai, trong phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa nội
dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện
chứng duy vật), do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công
cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý
về sự phát triển
a. Khái
niệm “phát triển”
* Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về
mặt số lượng hay khối lượng mà không có sự thay đổi về chất. Phát triển cũng
như quá trình chuyển lên liên tục,không có bước quanh co, thăng trầm phức tạp.
Nguồn gốc phát triển là do bên ngoài quy định.
* Quan điểm duy vật biện chứng phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện hơn.
- Phát triển là khuynh hướng
chung của thế giới.
b. Tính chất của sự phát triển
- Phát triển mang tính khách
quan,nó là cái vốn có của bản thân sự vật hiện tượng.
- Phát triển không chỉ là sự
thay đổi về mặt số lượng hay khối lượng mà nó còn là sự thay đổi về chất.
- Phát triển mang tính kế thừa
nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc bỏ, cải tạo và phát triển, không kế thừa
nguyên xi hay lắp ghép từ cái cũ sang cái mới một cách máy móc, hình thức.
- Tùy vào từng sự vật, hiện
tượng,quá trình cụ thể, phát triển còn bao gồm cả sự thụt lùi đi xuống nhưng
khuynh hướng chung là đi lên, là tiến bộ. Theo quan điểm duy vật biện chứng thì
khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc.
- Nguồn gốc của sựu phát triển
là ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do mâu thuẫn của sự vật hiên tượng quy
định.
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
Khi xem xét sự vật hiện tượng
phải có quan điểm phát triển.
Yêu cầu của quan điểm phát
triển:
+ Xem xét sự vật hiện phải đặt chúng trong sự
vật động phát triển không ngừng, vạch ra xu hướng biến đổi chuyển hóa của
chúng.
+ Phải biết phân chia quá trình phát triển của
sự vật thành nhiều giai đoạn. Trên cơ sở đó tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động
phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển
của nó.
III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Cái chung
và cái riêng
a. Phạm trù
cái chung và cái riêng; cái đơn nhất
*
Định nghĩa cái riêng
-
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiệng tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
*
Định nghĩa cái chung
-
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung
không những chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
*
Định nghĩa cái đơn nhất
-
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc
tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định nào đó và không được lặp lại ở bất
kỳ một kết cấu vật chất nào khác.
*
Phân tích mối quan hệ giữa cái chúng – cái riêng – cái đơn nhất
+
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung, không có cái riêng
nào tồn tại tác rời cái chung và cũng không có cái riêng nào là tồn tại vĩnh
viễn.
+
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ phận
nhưng là cái sâu sắc hơn cái riêng (ta nói cái chung là bộ phận của cái riêng
nhưng đây là bộ phận có tính chất bản chất chứ không phải là bộ phận hợp thành
của cái riêng, nó được xác định trong mối quan hệ cụ thể).
+ Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung
phản ánh thuộc tính, những mối liên hệ tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng
loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản chất , quy định phương hướng
tồn tại và phát triên của cái riêng.
+ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau
trong quá trình phát triển của sự vật.
+1. Sự chuyển hoá của cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của của
quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ
+ 2. Sự chuyển hoá của cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của cái
cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
c. Ý nghĩa
phương pháp luận
- Muốn biết được cái chung, cái bản chất thì phải xuất phát từ cái riêng,
từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
-
Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung trong hoạt động thực tiễn, phải
dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
-
Trong hoạt động thực tiễn thấy sự chuyển hoá nào có lợi chúng ta cần chủ đọng
tác động để nó sơm trở thành hiện thực.
2. Nguyên nhân và kết quả
a. Phạm trù
nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau gây ra một biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi do sự tác động lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng gây
ra. Kết quả chỉ sự biến đổi do nguyên nhân gây ra.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
* Tính chất:
- Tính khách quan
- Tính tất yếu
- Tính phổ biến, lặp đi lặp lại
- Nguyên nhân khác nguyên
cớ.
Nguyên cớ mang
tính chủ quan dùng để che đậy những nguyên nhân. Nguyên cớ là điều kiện là cái
rất cần thiết để chuyển hoá nguyên nhân thành kết quả.
* Mối quan hệ
giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân quyết định kết quả.
- Nguyên nhân có trước, sinh ra kết quả.
- Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế ấy.
Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp nhau về thời
gian (cái này có trước cái kia), mà là mối liên hệ sản sinh: cái này tất yếu
sinh ra cái kia.
Cùng một nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả do
nhiều nguyên nhân sinh ra. Do đó, mối quan hệ nhân quả rất phức tạp. Trong
trường hợp nhiều nguyên nhân cùng tham gia sinh ra một kết quả, người ta chia
ra các loại nguyên nhân:
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
+ Nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp
+ Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
+ Kết quả tác động trở lại nguyên nhân
Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân theo hai hướng:
+ Thúc đẩy nguyên nhân.
+ Kìm hãm nguyên nhân.
Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn
nhau trong những điều kiện nhất
định.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi kết quả lại tác động với sự vật, hiện
tượng khác và trở thành nguyên nhân sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân
biệt nguyên nhân với kết quả chỉ có tính chất tương đối. Chẳng hạn, sự phát
triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở
thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất.
c. Ý nghĩa
phương pháp luận
- Cặp
phạm trù nguyên nhân - kết quả của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận để
giải thích một cách đúng đắn mối quan hệ nhân - quả; chống lại các quan điểm
duy tâm, tôn giáo về những nguyên nhân thần bí.
- Vì
nguyên nhân quyết định kết quả nên muốn có một kết quả nhất định thì phải có
nguyên nhân và điều kiện nhất định. Muốn khắc phục một hiện tượng tiêu cực thì
phải tiêu diệt nguyên nhân sinh ra nó.
- Phân
loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu giữ vai trò
quyết định đối với kết quả.
- Biết sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều
nguyên nhân để tạo ra kết quả nhất định.
- Biết sử dụng kết quả để tác động lại nguyên nhân, thúc đẩy nguyên nhân
tích cực, hạn chế nguyên nhân tiêu cực.
3. Nội dung
và hình thức
a. Phạm trù
nội dung và hình thức
* Định nghĩa
-
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự
vật.
- Hình thức là cách tổ
chức, kết cấu của nội dung, là mối liên hệ ổn định giữa các mặt, các yếu tố, bộ
phận tạo thành nội dung.
Hình thức có hình thức bên trong
và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong quan trọng hơn hình thức bên ngoài.
Cần phân biệt cặp phạm trù nội dung-hình thức với cặp phạm trù bản
chất-hiện tượng.
b. Tính chất
và mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
+ Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Không có nội
dung nào lại không có một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào
lại không chứa đựng một nội dung nhất định.
+ Nội dung quyết định hình thức. Bởi vì, mối liên hệ giữa những mặt,
những yếu tố, những bộ phận thì do chính những mặt, những yếu tố, bộ phận đó
quyết định.
Hình thức phải phù hợp với nội dung. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa hình
thức với nội dung không cứng nhắc. Cùng một nội dung nhưng trong những điều
kiện tồn tại khác nhau có thể có nhiều hình thức khác nhau.
+ Hình thức có tác động trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội
dung sẽ tạo điều kiện cho nội dung phát triển. Ngược lại, nếu hình thức không
phù hợp với nội dung sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.
Ví dụ: sự tác động trở lại của
quan hệ sản xuất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Khi hình thức cũ, lỗi thời mâu thuẫn với nội dung mới. Cuộc đấu tranh
giữa nội dung và hình thức sẽ dẫn đến xóa bỏ hình thức cũ, thay bằng hình thức
mới cho phù hợp với nội dung mới. Đồng thời nội dung cũng được cải tạo lại.
Lênnin: “Đấu tranh giữa nội dung với hình thức, vứt bỏ hình thức, cải tạo nội
dung”.
c. Ý nghĩa phương
pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung và hình
thức.
- Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện
tượng, trước hết cần căn cứ vào nội dung của nó.
- Trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết sử dụng nhiều hình thức để
phục vụ cho một nội dung nhất định.
- Cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp
với tình hình mới.
IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Quy luật
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại
a.
Khái niệm chất, lượng
* Khái niệm “chất”
Chất là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật đó là cái gì, phân biệt nó với
sự vật, hiện tượng khác.
* Khái niệm “lượng”
Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, cường độ, trình độ, tốc độ, v.v..
b. Quan hệ
biện chứng giữa chất và lượng
* Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật
Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau.
Chất nào có lượng đó; lượng nào có chất đó. Chất và lượng có sự phù hợp với
nhau. Sự phù hợp này diễn ra trong một phạm vi, giới hạn nhất định gọi là “độ”.
Độ là phạm vi, giới hạn trong đó lượng đổi chưa làm chất thay đổi.
* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất
- Sự phát triển bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Lượng
biến đổi trong phạm vi “độ” chưa làm chất thay đổi.
- Vượt quá độ, sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất. Chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy.
Điểm diễn ra bước nhảy gọi là điểm nút.
* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về chất thành những sự thay
đổi về lượng
Chất mới ra đời thúc đẩy quá trình biến đổi về lượng
với quy mô và tốc độ cao hơn. Bởi vì,
trong phạm vi chất cũ, lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định thì bị
chất cũ kìm hãm. Do đó, thay chất cũ bằng chất mới là phá bỏ sự kìm hãm đó. Mặt
khác, chất mới cần được kết hợp với lượng mới.
* Bước nhảy và các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy là sự thay đổi về chất từ chất cũ sang chất mới.
Bước nhảy có nhiều hình thức đa dạng phong phú tùy theo bản chất của sự
vật và điều kiện tồn tại của sự vật.
+ Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần
+ Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận
c. Ý nghĩa
phương pháp luận
- Giúp ta hiểu được cách thức của sự phát triển.
Chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình.
- Trong hoạt động thực tiễn muốn có chất mới, cần phải
có quá trình tích lũy về lượng. Cần chống khuynh hướng bảo thủ trì trệ, tranh
thủ tạo ra những bước nhảy để thúc đẩy sự vật phát triển tiến lên. Đồng thời
phải chống lại bệnh chủ quan nóng vội, duy ý chí, thực hiện bước nhảy khi chưa
có sự chín muồi về lượng và bất chấp những điều kiện tồn tại cụ thể của sự vật,
hiện tượng.
2. Quy luật
phủ định của phủ định
a. Khái niệm phủ định và phủ định biện
chứng
- Phủ định nói chung là sự bài trừ, bác bỏ sự vật nhất định nào đó. Nói
cách khác, phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật, hiện tượng này
được thay thế bởi sự vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).
- Phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển, là mắt
khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái
tự phủ định.
*
Đặc trưng của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng gồm hai đặc trưng sau đây:
- Tính khách quan: Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, là kết quà giải quyết mâu
thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan
- Tính kế thừa: Đây là đặc trưng cơ bản nhất của phủ định biện chứng. Phủ
định biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng cái mới chỉ
phủ định mặt lạc hậu, lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị của
cái cũ. Do đó, phủ định biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời cũng là sự khẳng
định.
b. Phủ định
của phủ định – hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển
- Sự phát triển biện chứng thông
qua những lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa)
và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân
tố mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra
xu hướng tiến lên không ngừng.
Ví dụ: Tằm Ò Kén
Ò
Ngài (ÒBướm
Ò
Trứng Ò Tằm)
CSNT Ò
CHNL Ò
PK ÒTBCN
Ò
CSCN
CNDV cổ đại Ò
CNDV siêu hình Ò CNDVBC
- Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu
thuẫn bên trong của sự vật.
- Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật
ở điểm xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất trở thành cái đối
lập với nó - bước trung gian của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái
lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lần phủ định thứ hai được gọi là phủ định
của phủ định.
Ví
dụ: Hạt thóc Ò Cây lúa Ò Bông
lúa
-
Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới.
-
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển.
- Phủ định của phủ định được hoàn thành trong chu kỳ phát triển, thông
thường mỗi chu kỳ trải qua hai lần phủ định.
-
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển.
Sự phát triển không phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
-
Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức biểu
đạt rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính lặp lại nhưng không quay trở lại mà tiến lên của sự phát triển.
c. Ý nghĩa
phương pháp luận
- Giúp ta hiểu được khuynh hướng của sự phát triển:
tiến lên theo đường trôn ốc, cái mới, thay thế cái cũ.
- Khắc phục cách nhìn đơn giản về sự phát triển: phát
triển theo đường thẳng, đường tròn khép kín.
- Tin tưởng vào sự tất thắng của cái mới, vào chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. ủng hộ và tạo điều kiện cho cái mới, cái
tiến bộ chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu.
Vấn đề 3: CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
I. VAI TRÒ CỦA
SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN
CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Sản xuất vật
chất và vai trò của sản xuất vật chất
a. Khái niệm sản xuất vật chất và
phương thức sản xuất
* Khái
niệm sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là quá trình con người
sử dụng công cụ lao động (tác động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của
giới tự nhiên, tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển, nhu cầu phong phú và vô tận của con người.
* Khái
niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất, cách thức con người
tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng trong một giai đoạn lịch sử nhất định..
b. Vai trò của sản xuất vật chất
và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
* Vai trò của sản xuất vật chất:
- Tạo ra
các tư liệu sinh hoạt thoả mãn các nhu cầu của con người.
- Tạo ra
các mặt của đời sống xã hội, tạo ra các quan hệ xã hội về Nhà nước, pháp quyền,
đạo đức, nghệ thuật.
- Làm
biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
- Sự
phát triển của sản xuất quyết định sự phát triển các mặt của đời sống xã hội,
quyết định xã hội từ thấp đến cao.
* Vai
trò của phương thức sản xuất đối với trình độ và phát triển xã hội
- Sản
xuất vật chất được thực hiện trong những điều kiện cụ thể về hoàn cảnh địa lý,
điều kiện tự nhiên; về điều kiện dân số và phương thức sản xuất. Trong đó
phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Phương
thức sản xuất quyết định tính chất, kết cấu của xã hội. Bởi lẽ, trong mỗi xã
hội cụ thể, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế độ
xã hội sẽ như thế ấy. Kết cấu của giai cấp, tính chất của mối quan hệ giữa các
giai cấp cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức v.v... suy
cho cùng đều do phương thức sản xuất quyết định.
- Khi phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương
thức sản xuất cũ lỗi thời thì sớm hay muộn sẽ có sự thay đổi cơ bản từ kết cấu
kinh tế đến kết cấu giai cấp; từ các quan điểm chính trị - xã hội đến các tổ
chức xã hội v.v... Vì vậy, lịch sử xã hội loài người, trước hết là lịch sử sản
xuất vật chất, các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát
triển.
2. Quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực
lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để
chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
LLSX bao gồm:
+ Người lao động
với những kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, tri thức, kinh nghịêm nhất định có khả
năng sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất.
+ Tư liệu sản xuất
bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
+. Đối tượng lao động là những vật mà người
lao động tác động vào để tạo ra của cải vật chất.
+.. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và những phương tiện lao động khác, là những vật
hay phức hợp những vật mà người lao động sử dụng để tác động vào đối tượng lao
động.
- Các yếu
tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó người
lao động đóng vai trò quyết định, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân
loại là công nhân, là người lao động”.
* Quan
hệ sản xuất và ba mặt của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
- Quan
hệ sản xuất bao gồm:
|
|
Quan hệ sản xuất |
|
|
![]() ![]() ![]() |
|
|
|
|
Quan hệ về
chiếm hữu tư liệu sản xuất
|
|
Quan hệ về
quản lý và phân công lao động
|
|
Quan hệ về
phân phối sản phẩm
|
b.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Tính thống nhất giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại khồn tách rời nhau mà
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.
* Trình độ và tính chất của lực
lượng sản xuất
- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động,
trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân
công lao động xã hội, trình độ ứng dụng của khoa hhọc vào quá trình sản xuất.
Như vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như thế nào nó sẽ phản ánh
tính chất của lực lượng sảm xuất như thế ấy.
- Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và sức lao động. Khi sản
xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng
sản xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hiện đại,
phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất ngày càng có tính
chất xã hội hoá.
* Vai trò quyết định của lực lượng
sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Trong phương thức sản xuất, lực
lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội của nó.
- Trong phương thức sản xuất thì lực
lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
- Cùng với sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới hình thành, biến đổi và phát triển
theo:
+ Khi quan hệ sản
xuất hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ phát triển và tính
chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát
triển.
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành,
biến đổi nhưng nó không theo kịp, không phù hợp với trình độ phát triển và tính
chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản
xuất, kìm hảm lực lượng sản xuất phát triển.
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản
xuất đối với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại
đối với lực lượng sản xuất theo hai hướng:
+ Thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
+
Kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ lực lượng sản
xuất.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Phát triển lực lượng sản xuất: công
nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến. Coi trọng yếu
tố con người trong lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất ở
nước ta.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà
nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế; đảm bảo
các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC
XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
* Khái
niệm tồn tại xã hội và các nhân tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội
- Tồn tại xã hội là toàn bộ những
điều kiện vật chất cùng với những quan hệ vật chất được đặt trong phạm vi hoạt
động thực tiễn của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Tồn tại xã hội
bao gồm nhiều yếu tố:
+ Phương thức
sản xuất vật chất;
+ Điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lý;
+ Dân số và mật
độ dân cư;...
Trong đó, phương
thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định, hai yếu tố còn lại có vai trò quan
trọng. Ngoài các yếu tố cơ bản trên, khi nói tới tồn tại xã hội cần phải lưu ý
tới các quan hệ vật chất khác như quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc tế.
* Ý thức
xã hội và cấu trúc của ý thức xã hội
- Khái
niệm ý thức xã hội
Ý
thức xã hội là khái niệm chỉ các hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã
hội, phản ánh tông tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
+ Về mặt
nội dung, ý thức xã hội gồm: tư tưởng, quan điểm, tâm trạng, tình cảm, tập
quán, truyền thống...
- Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của
những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại
xã hội với mức độ khác nhau.
- Kết
cấu của ý thức xã hội
+ Tiếp cận theo các hình thái ý thức, ý
thức xã hội bao gồm: ý thức chính trị, pháp quyền, triết học, nghệ thuật, tôn
giáo, khoa học, thẩm mỹ ... Đây là cách tiếp cận theo “lát cắt dọc”. Nghĩa là ta tiếp cận các hình thái ý thức xã hội
theo nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
+ Tiếp cận ý thức
xã hội theo trình độ phản ánh. Cách tiếp cận này gồm 2 cấp độ:
ü Ở cấp độ
thấp: ý thức xã hội thể hiện ra là ý thức sinh hoạt thông
thường (đời thường). Đây là những tri thức, những quan niệm của con người được
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hoá, khái quát hoá, đó mới chỉ là những tri thức mang tính kinh nghiệm,
phản ánh những cái bề ngoài, cái không bản chất. Bộ phận quan trọng của nó là tâm
lý xã hội.
Tâm lý xã hội là gì? Tâm lý
xã hội là một bộ phận của ý thức sinh hoạt đời thường, nó là biểu hiện của
những hoạt động và cử chỉ của con người. Tâm lý xã hội xã hội bao gồm: tình
cảm, tâm trạng, truyền thống, thói quen, nguyện vọng, ý thích, thị hiếu... riêng
của mỗi người trong một hoàn cảnh nào đó.
ü Ở cấp độ
cao: Ý thức xã hội được thể hiện ra ở ý thức lý luận. Ý thức lý luận là những tri thức của con người đã
được hệ thống hoá, khái quát hoá thành những tư tưởng, học thuyết và nó được
thể hiện thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật. Bộ phận quan trọng nhất
của ý thức lý luận là hệ tư tưởng.
Hệ tư tưởng là gì? Hệ tư
tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư
tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo) kết quả của sự khái
quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một các tự giác
bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định.
Giữa ý
thức thông thường và ý thức lý luận là mối quan hệ biện chứng giữa một cái cao
và thấp trong quá trình phản ánh.
Mối quan
hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
ü Tâm lý
xã hội và hệ tư tưởng có sự khác nhau nhưng giữa chúng đều có điểm giống nhau.
Cả tâm lý xã hội và hệ tư tưởng đều có nguồn gốc chung đó là phản ánh tồn tại
xã hội.
ü Mặc dù
đều có nguồn gốc chung nhưng sự phân biệt rạch ròi giữa tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng là rất cần thiết. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai phạm trù khác nhau
về chất. Tâm lý xã hội ở trình độ thấp, còn hệ tư tưởng ở trình độ cao. Tuy
nhiên, tâm lý xã hội không thể trở thành hệ tư tưởng được. Tình cảm xã hội và
lý tưởng xã hội là cầu nối cho mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Tình cảm xã hội và tâm lý xã hội luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau.
b. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
- Tồn
tại xã hội là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất của ý
thức xã hội, nó làm hình thành và phát triển ý thức xã hội. Còn ý thức xã hội
chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã
hội cũng phải thay đổi theo.
2. Tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội
a. Ý thức xã hội
thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội loài người đã cho thấy, nhiều khi xã
hội đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu nhưng ý thức xã hội do xã hội ấy sinh ra
vẫn tồn tại dai dẳng (truyền thống, tập quán, thói quen...). Ý thức xã hội
thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây:
- Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường
xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người thường diễn ra
với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung nó chỉ biến
đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Hai là, do
sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán, cũng như do tính lạc hậu bảo
thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã
hội.
Tính vượt trước của ý thức xã
hội so với tồn tại xã hội thể hiện ở 2 khuynh hướng sau:
- Ý thức xã hội có tính vượt trước so với tồn tại xã
hội nhưng tính vượt trước này lại dựa trên quy luật khách quan. Chính vì vậy,
khuynh hướng này là khuynh hướng tiến bộ, khoa học, nó định hướng tích cực cho
hoạt động của con người.
- Khuynh hướng thư hai là dựa trên cái chủ quan – là
sản phẩm của cái chủ quan. Nó thường đem lại cho chúng ta nhứng ý thức khôg
khoa học, thậm chí phản khoa học.
c. Ý thức xã hội
có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
- Ý thức xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định
bao giờ nó cũng là sự hợp thành bởi ý thức xã hội của các thời đại trước với ý
thức xã hội của thời đại đó. Điều này cho thấy, không có sự kế thừa thì không
có ý thức xã hội.
- Do ý thức xã hội có tính kế thừa nên xuất hiện
hiện tượng: có thể về điều kiện vật chất của xã hội nó đang còn thiếu, yếu,
phát triển ở trình độ thấp, thế nhưng mộ bộ phận nào đó trong lĩnh vực đời sống
tinh thần của xã hội có thể phát triển ở trình độ cao (tính kế thừa trong sự
phát triển).
d. Sự tác động
qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã
hội cũng là một biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã
hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể
giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện
vật chất.
- Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy:
thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những
hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu vầ tác động đến các hình thái ý thức
xã hội khác.
Nhìn chung, để phản ánh tồn tại xã hội thì mọi hình
thái ý thức xã hội đều phải thông qua lăng kính của hình thái ý thức chính trị
để phản ánh tồn tại xã hội. Tính giai cấp của ý thức xã hội cũng phản ánh qua ý
thức chính trị.
e. Sự tác động
trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn
tại xã hội phụ thuộc vào những điều kiện sau đây:
- Phụ thuộc vào lực lượng xã
hội, giai cấp đề ra những quan điểm, tư tưởng cho xã hội.
- Phụ thuộc vào mức độ phù hợp
ít hay nhiều của những tư tưởng đó đối với hiện thực.
- Phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của những tư tưởng
đó đối với nhu cầu phát triển xã hội và vào mức độ mở rộng của tư tưởng đó
trong quần chúng.
3. Ý nghĩa
phương pháp luận
- Nghiên cứu ý thức xã hội không được dừng lại ở các
hiện tượng ý thức mà phải đi sâu nghiên cứu tồn tại xã hội.
- Muốn phát triển ý thức xã hội của một xã hội mới
về lâu dài phải phát triển cơ sở vật chất xã hội của nó.
- Phải thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của ý
thức xã hội đối với quá trình phát triển nền văn hoá mới và con người mới.
IV. HÌNH
THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ-TỰ NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH
THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
1. Khái niệm,
kết cấu hình thái kinh tế-xã hội
a. Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù
của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn phát triển
lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất tương ứng với những lực lượng sản
xuất ở một trình độ phát triển nhất định và một kiến trúc thượng tầng được dựng
lên trên những quan hệ sản xuất đó.
Xã hội
loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội và tương ứng với 5 phương
thức sản xuất: Cộng sản nguyên thủy Ò chiếm hữu nô lệ
Ò phong
kiến Ò tư bản
chủ nghĩa Ò cộng
sản chủ nghĩa.
b. Kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội
- Phương thức sản xuất là
những cách thức mà con người tiến hành để sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng
nhu cầu của mình trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất
- kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau sẽ có những lực lượng sản xuất khác nhau. Sự hình thành và phát triển
của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, xét đến cùng do lực lượng sản xuất quyết
định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
nhau từ thấp đến cao.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất. Đây là quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định
tất cả những quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có một
quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể
này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử.
- Kiến trúc thượng tầng. Những quan hệ sản
xuất là bộ xương cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở những quan
hệ sản xuất đó hình thành nên những quan điểm về chính trị, pháp lý, đạo đức,
triết học ... và những thiết chế tương ứng hợp thành kiến trúc tượng tầng xã
hội mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng
sinh ra nó.
Ngoài
những mặt cơ bản nêu trên (lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng) thì hình thái kinh tế - xã hội còn có những quan hệ dân tộc, quan
hệ gia đình và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó gắn bó chặt chẽ với quan
hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của các quan hệ sản xuất.
2. Quá trình
lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
a. Tính lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
- Lịch
sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển nối
tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế
- xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong
lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trìn lịch sử tự
nhiên của xã hội.
- Các
mặt hợp thành của hình thái kinh tế - xã hội không tách rời nhau mà có mối liên
hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật vận động, phát triển khách
quan và phổ biến của xã hội. Đó là quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.
Chính sự
tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận
động và phát triển từ thấp đến cao như một quá trình lịch sử tự nhiên, không
phụ thuộc vào ý muốn của con người. Trong các quy luật khách quan chi phối sự
vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có
vai trò quyết định nhất. Nó vừa đảm bảo tính
kế thừa trong sự phát triển, vừa biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát
triển của lịch sử xã hội loài người.
- Sự tác
động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát
triển thay thế nhau từ thấp đến cao – đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không bị chi phối bởi các quy
luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về
truyền thống văn hoá, điều kiện quốc v.v... Chính vì vậy, lịch sử phát triển
của nhân loại hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét độc
đáo riêng trong sự phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Nhưng có những dân tộc bỏ qua một
hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, sự bỏ qua đó cũng diễn
ra theo một quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy,
quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn
ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một vài hình
thái kinh tế - xã hội trong những điều kiện nhất định.
b. Giá trị lịch sử của học
thuyết hình thái – kinh tế xã hội
- Là cơ sở lý
luận để hiểu được cấu trúc và quy luật phát triển của xã hội loài người
- Chống lại các
quan điểm duy tâm, siêu hình về xã hội.
- Hiểu sự phát
triển của xã hội như là quá trình lịch sử - tự nhiên.
- Nghiên
cứu học thuyết hình thái kinh tế-xã hội giúp ta hiểu được đường lối và chủ
trương của Đảng ta trong việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để
xây dựng hình thái kinh tế-xã hội ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
phát triển lực lượng sản xuất bằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng cơ
sở hạ tầng bằng chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bằng việc xây dựng
nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, v.v..
V. QUAN ĐIỂM CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN
CHÚNG NHÂN DÂN
1. Con người và
bản chất của con người
a. Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông
- Phật giáo:
Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Cuộc sống
vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để trở thành
bất diệt.
- Khổng Tử:
Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân” là giá trị cao
nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử.
- Mạnh Tử: quy
tính chất của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập
quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tư tưởng, rèn luyện để giữ
được đạo đức của mình.
- Tuân Tử:
Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là các, nhưng có thể cải biến
được, phải chống lại cái ác, con người mới tốt được.
- Đổng Trọng
Thư: Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm cực đoan. Ông quan
niệm Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau (Thiên nhân cảm ứng). Cuộc đời
con người bị quyết định bởi “thiên mệnh”.
- Lão Tử:
Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống “vô vi” theo
lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ
thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu hiện tính đa dạng và
phong phú thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức...
Nhìn chung con người trong
triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm có pha trộn tính chất duy vật
chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
b. Quan niệm về con
người trong triết học phương Tây trước K.C.Mác.
- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì mất
đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh hồn
để hướng đến Thiên đường vĩnh của.
- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.
- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế.
Cuộc sống trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.
- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý
niệm tuyệt đối”, còn L.Feuerbach lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát
triển của tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước
C.Mác, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật
siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung các quan niệm
trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh
thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự
nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
c. Quan niệm của triết học Mác - Lênin
về bản chất con người.
Trong
tác phẩm Luận cương về Feuerbach,
K.C.Mác chỉ ra hạn chế của Feuerbach trong việc xem xét con người như là một cơ
thể sinh vật có ý thức và tình cảm, như tình yêu, tình bạn, không thấy mặt xã
hội và hoạt động thực tiễn của con người. K.C.Mác vạch rõ: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” (Toàn
tập, tập 3, tr.11).
* Con
người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hộ
- Mặt
sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật
sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người.
- Mặt
xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội,
đời sống tinh thần của con người.
Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể
tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người,
nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là
mặt giữ vai trò quyết định bản chất
của con người. Bởi mặt xã hội của con
người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải
vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng
thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội nên quas trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống
nhất với nhau:
- Những
quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
- Những
quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những
quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ
thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con
người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản chất
của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát
triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.
* Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.C.Mác khẳng
định: “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.
- Luận
đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôm cụ thể, xác định, sống trong một điều
kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt
động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần
để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các
mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
- Trong
khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác - Lênin không phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác - Lênin chỉ muốn nhấn
mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã
hội.
* Con
người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Không có thế giới
tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con
người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song,
điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động
thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự
vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
- Trong
quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ
thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con
người.
Vì vậy,
để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách
tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là
biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn
nào của lịch sử xã hội loài người.
2. Khái niệm
quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và cá
nhân
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là bộ phân có cùng chung
lợi ích căn bản bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên
kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức hay một
đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời
đại nhất định.
Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận
động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
và vai trò của cá nhân trong lịch sử
* Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử
- Quần
chúng nhân dân là người sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động sản
xuất vật chất của họ là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Quần
chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần cho xã hội.
- Quần
chúng nhân dân là chủ thể và là động lực của các phong trào xã hội.
- Lợi
ích của quần chúng là điểm khởi đầu và cũng là mục đích cao nhất của mọi phong
trào cách mạng.
* Vai
trò của cá nhân, vĩ nhân đối với sự phát triển của lịch sử
- Lãnh tụ là cá nhân kiệt xuất xuất hiện trong
phong trào quần chúng nhân dân, được quần chúng suy tôn làm người lãnh đạo
phong trào quần chúng.
- Lãnh
tụ là người có tri thức uyên bác, có tầm nhìn xa trông rộng, nắm được xu thế
phát triển khách quan của lịch sử, đề ra được đường lối chiến lược và sách lược
đúng đắn cho phong trào quần chúng.
- Lãnh tụ là người có năng lực tập hợp, thống nhất, tổ
chức, lãnh đạo quần chúng, thống nhất hoạt động của quần chúng nhằm thực hiện
mục đích và nhiệm vụ đề ra.
- Lãnh
tụ là người có ý chí, quyết tâm cao, có đạo đức tiêu biểu, là hạt nhât đoàn kết
và tượng trưng cho ý chí và sức mạnh của phong trào quần chúng.
* Cá
nhân và mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội
- Cá
nhân là gì? Cá nhân là khái
niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với
các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.
- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Cá nhân và xã hội có mối quan hệ khắng khít tác động lẫn nhau. Quan hệ
về lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) là nền tảng của quan hệ cá nhân và xã
hội.
+ Xã hội giữ vai trò quyết
định đối với cá nhân, bởi vì:
Ø Sự hình
thành nhân cách của cá nhân chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện xã hội
nhất định và phụ thuộc vào những điều kiện đó.
Ø Nhu cầu và
lợi ích cá nhân chỉ hình thành và được thực hiện trong những điều kiện xã hội
nhất định.
+ Sự phát triển của cá nhân có
tác động trở lại sự phát triển của xã hội:
Ø Cá nhân tích
cực có vai trò thúc đẩy sự phát triển xã hội. nhất là những cá nhân kiệt xuất
(vĩ nhân) có vai trò rất to lớn trong sự phát triển xã hội. Nhân cách và hoạt
động của họ để lại dấu ấn rất sâu sắc trong lịch sử. Đó là những lãnh tụ cách
mạng, những tướng tài, những nhà triết học, khoa học, những tài năng nghệ
thuật.
Ø Cá nhân tiêu
cực có tác dụng kìm hãm sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, tác dụng kìm hảm của
họ chỉ có tính chất tạm thời, vì xã hội phát triển theo quy luật khách quan
không phụ thục ý chí cá nhân nào.
Trong các xã hội có giai cấp bóc lột, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
có mâu thuẫn gay gắt. Chủ nghĩa cá nhân, nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan là
một trở ngại lớn cho sự phát triển xã hội. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một
xã hội, trong đó lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội được kết hợp hài hòa, tác
động, thúc đẩy lẫn nhau cùg phát triển.
*
Ý nghĩa phương pháp luận.
-
Hiểu được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, tư đó xây dựng quan điểm quần chúng: tôn trọng và tin tưởng
vào sức mạnh và khả năng to lớn của quần chúng, dựa vào quần chúng, phát
huy nguồn sức mạnh tiềm tàng của quần chúng. Hiểu được quan điểm của Hồ Chủ
tịch và Đảng ta: coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, người cán
bộ là đầy tờ trung thành của nhân dân.
- Hiểu được vai trò to lớn của lãnh tụ, lựa chọn lãnh
tụ có đủ tài đức để lãnh đạo phong trào. Tôn kính lãnh tụ, nhưng không được
sùng bái cá nhân lãnh tụ. Tôn kính lãnh tụ là tình cảm đạo đức đúng đắn, xuất
phát từ chỗ hiểu biết tài năng, phẩm chất và cống hiến của lãnh tụ. Trái lại,
sùng bái cá nhân lãnh tụ xuất phát từ sự ngu dốt và mê tín, coi lãnh tụ là thần
thánh, làm cho lãnh tụ xa rời quần chúng, phạm sai lầm sai lầm không khắc phục
được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét